Giá trị của CEA trong Ung thư đại trực tràng và Ung thư nói chung

CEA ( Carcinoembryonic antigen) là một loại protein thường được tìm thấy trong mô của một bào thai phát triển trong tử cung. Nồng độ trong máu của protein này biến mất hoặc giảm xuống rất thấp sau khi sinh.Ở người lớn, một lượng CEA bất thường có thể là một dấu hiệu của bệnh ung thư.

1/ Ung thư là gì?

Ung thư bắt đầu từ các tế bào của cơ thể, những đơn vị xây dựng nên một cơ thể sống. Thông thường, cơ thể hình thành các tế bào mới khi nó cần, thay thế tế bào cũ đã chết. Nhưng đôi khi quá trình này gặp khó khăn. Các tế bào mới phát triển ngay cả khi cơ thể không cần chúng, trong khi đó những tế cũ lại không chết đi. Những tế bào này có thể hình thành nên một khối gọi là U. U có thể lành tính hoặc ác tính. Các khối u lành tính không phải là ung thư, mà Ung thư chính là các khối u ác tính. Các tế bào từ các khối u ác tính có thể xâm nhập các mô lân cận. Chúng cũng có thể phân bào nhanh chóng và lây lan đến các bộ phận khác của cơ thể.

Hầu hết các bệnh ung thư được đặt tên theo nơi mà chúng bắt đầu. Ví dụ, ung thư phổi bắt đầu trong phổi và ung thư vú bắt đầu ở vú. Sự lây lan của ung thư từ một phần của cơ thể khác được gọi là di căn. Các triệu chứng và điều trị phụ thuộc vào loại ung thư và nâng cao nó. Kế hoạch điều trị có thể bao gồm phẫu thuật, xạ trị và / hoặc hóa trị.

2/ Giá trị của CEA trong đánh giá Ung thư 

CEA là gì?

CEA ( Carcinoembryonic antigen) là một loại protein thường được tìm thấy trong mô của một bào thai phát triển trong tử cung. Nồng độ trong máu của protein này biến mất hoặc giảm xuống rất thấp sau khi sinh.Ở người lớn, một lượng CEA bất thường có thể là một dấu hiệu của bệnh ung thư.

Một xét nghiệm máu có thể được thực hiện để đo lượng CEA trong máu.

Thực hiện xét nghiệm như thế nào?

Cần 1 mẫu máu để xét nghiệm.

>>Xem thêm: Cấu tạo của máy xét nghiệm điện giải đồ

Chuẩn bị cho xét nghiệm như thế nào:

Hút thuốc có thể làm tăng nồng độ CEA. Do đó, người có thói quen hút thuốc nên tránh hút thuốc 1 thời ngắn trước khi xét nghiệm.

Cảm giác khi xét nghiệm ra sao?

Khi đâm kim tiêm vào để lấy máu, một số người cảm thấy đau vừa phải, trong khi những người khác chỉ cảm thấy hơi thốn đau. Sau đó, một số người có thể cảm thấy đau nhói.
Tĩnh mạch và động mạch có kích thước thay đổi khi so sánh giữa người này và người khác, thậm chí khác nhau giữa 2 bên của cùng một cơ thế. Lấy mẫu máu ở một số người có thể là khó khăn hơn so với những người khác.

Tại sao Xét nghiệm CEA trong máu lại được chỉ định?

Xét nghiệm này được thực hiện để theo sự tái phát của ung thư đại tràng và các ung thư khác ở những người đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. Nó không được sử dụng như là một xét nghiệm sàng lọc ung thư.

Kết quả bình thường:

Giới hạn bình thường là từ 0 đến 2.5 microgram CEA trong 1 lít máu (mcg/L). Ở những người hút thuốc, giới hạn bình thường là từ 0 đến 5 mcg/L.

Giới hạn bình thường có thể thay đổi giữa các phòng xét nghiệm khác nhau. Ở những người hút thuốc, nồng độ CEA tăng nhẹ  có thể là bình thường.

Kết quả bất thường có ý nghĩa gì?

Nồng độ CEA cao ở một người đã được điều trị ung thư trước đó 1 thời gian ngắn  có thể có nghĩa là ung thư đã tái phát. Cao hơn mức bình thường có thể là do các ung thư sau đây:

• Ung thư vú
• Ung thư hệ sinh dục và tiết niệu.
• Ung thư đại tràng
• Ung thư phổi
• Ung thư tuyến tụy
• Ung thư tuyến giáp

Một mình kết quả CEA máu cao hơn bình thường không thể chẩn đoán một ung thư mới, mà phải cần thêm một vài xét nghiệm khác.
Một số nguyên nhân khác cũng có thể làm tăng nồng độ CEA như:

• viêm túi mật
• Xơ gan và bệnh gan khác
• viêm túi thừa
• Nghiện thuốc lá.
• bệnh lý viêm nhiễm ở ruột (chẳng hạn như viêm loét đại tràng)
• Viêm phổi.
• Viêm tụy
• Loét dạ dày
Những biến chứng của xét nghiệm:
• Chảy máu quá nhiều (hiếm)
• Ngất xỉu hoặc cảm giác chóng mặt
• tụ máu (máu tích tụ dưới da)
• Nhiễm trùng

Lưu ý

Nồng độ CEA bất thường có thể có ở những người không hề bị ung thư.

3/ Giá trị của CEA trong đánh giá giai đoạn và theo dõi bệnh nhân ung thư đại trực tràng

CEA là một glycoprotein phức tạp được sản xuất 90% từ ung thư đại trực tràng và là yếu tố góp phần vào các đặc điểm của một khối u ác tính. Nồng độ CEA có thể được đo trong huyết thanh , và nồng độ của nó trong huyết tương có thể hữu ích như là một dấu hiệu chỉ điểm ung thư. Bởi vì độ nhạy của nó thấp trong giai đoạn sớm của ung thư đại trực tràng, đo nồng độ CEA là một phương thức không phù hợp với việc sàng lọc ung thư. Nồng độ CEA trước phẫu thuật cao là một dấu hiệu tiên lượng xấu và tương quan với sự giảm thời gian sống còn sau khi phẫu thuật cắt bỏ ung thư đại trực tràng.

Nồng độ CEA không trở về mức bình thường sau khi phẫu thuật cắt bỏ chỉ có có ý nghĩa phẫu thuật không giải quyết triệt căn những bệnh hệ thống còn tiềm ẩn.Thường xuyên theo dõi nồng độ CEA sau phẫu thuật có thể cho phép xác định các bệnh nhân liệu có còn di căn không sau phẫu thuật cắt bỏ hoặc điều trị khu trú, những phương pháp điều trị mà dường như có hiệu quả với bệnh. Để xác định nhóm này, đo nồng độ CEA liên tiếp có hiệu quả hơn so với đánh giá lâm sàng hoặc bất kỳ phương thức chẩn đoán khác, mặc dù độ nhạy để phát hiện bệnh tái phát là không cao đối với các di căn vùng hoặc phổi so với di căn gan.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng một tỷ lệ nhỏ các bệnh nhân sau phẫu thuật được theo dõi nồng độ CEA và được phẫu thuật kịp thời các di căn nhờ vào gợi ý của CEA sẽ được sống và không tái phát bệnh 5 năm sau khi phẫu thuật. Hơn nữa,nồng độ CEA sau khi phẫu thuật các di căn còn để tiên lượng sự sống còn ở những bệnh nhân trải qua các phẫu thuật di căn gan hoặc di căn phổi.

Tuy nhiên, một số tác giả cho rằng theo dõi nồng độ CEA không phải là phương pháp vừa tốt về chi phí vừa có hiệu quả để cứu người. Để hỗ trợ cho lập luận này, không có sự khác biệt rõ ràng về thời gian sống còn sau khi phẫu thuật di căn với mục đích chữa bệnh giữa các bệnh nhân có phẫu thuật xem xét lần 2 được thực hiện trên cơ sở nồng độ cao của CEA và những người có những bất thường về các xét nghiệm hoặc chẩn đoán hình ảnh khác.

>>Xem thêm: Tất cả những thông tin về máy xét nghiệm sinh hóa

Ngoài ra còn có sự không thống nhất rõ ràng về tần số hoặc thời gian theo dõi nồng độ CEA, mặc dù các hướng dẫn ASCO hiện đang đề nghị mỗi 2-3 tháng trong ít nhất 2 năm sau khi chẩn đoán. Trong việc theo dõi bệnh nhân đã trải qua điều trị giảm triệu chứng, nồng độ CEA phản ánh tốt đáp ứng điều trị và CEA không chỉ mang tính phản ánh đáp ứng điều trị mà còn có thể xác định bệnh đã thực sự ổn định không sau đợt hóa trị liệu kết hợp, phương pháp điều trị đã được chứng minh là hiệu quả trong việc tăng thời gian sống còn và giảm triệu chứng.

Gần đây, phương pháp chụp lấp lánh xạ miễn dịch sử dụng các kháng thể của CEA có đánh dấu đồng vị phóng xạ dần trở thành một kỹ thuật quan trọng khi cung cấp thêm thông tin đáng kể về mặt lâm sàng trong việc đánh giá mức độ và vị trí của bệnh ở những bệnh nhân ung thư đại trực tràng trước và sau các chẩn đoán hình ảnh thông dụng hoặc khi kết hợp với chúng.Phương pháp miễn dịch dựa trên CEA là một lĩnh vực nghiên cứu lâm sàng tiến bộ vượt bậc đã chứng minh được phững đáp ứng miễn dịch qua kháng thể và tế bào.

Tham khảo:

1/ CEA Blood test (Updated by: David C. Dugdale, III, MD, Professor of Medicine, Division of General Medicine, Department of Medicine, University of Washington School of Medicine. Also reviewed by David Zieve, MD, MHA, Medical Director, A.D.A.M., Inc.)http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/ency/article/003574.htm

2/ Cancer http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/cancer.html

3/ Carcinoembryonic antigen in the staging and follow-up of patients with colorectal cancer- Goldstein MJ, Mitchell EP ( Source: Division of Neoplastic Diseases, Department of Medicine, Thomas Jefferson University, Philadelphia, Pennsylvania 19107, USA. )http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/16100946

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0938238868